KỶ NIỆM 44 NĂM GIẢI PHÓNG MIỀN NAM, THỐNG NHẤT ĐẤT NƯỚC (30-4-1975/30-4-2019) Dũng sĩ diệt Mỹ ưu tú Hoàng Minh Châu
Cập nhật ngày: 24/04/2019 14:29

Lần đầu tiên tôi gặp Đại tá Hoàng Minh Châu, nguyên Trưởng phòng Đặc công Quân khu đó là lúc ông đang hào hứng kể lại cho thế hệ trẻ của Lữ đoàn Đặc công 198 (Bộ tư lệnh Đặc công) về những trận đánh của đơn vị. Tình cờ tôi gặp lại ông trong dịp đến thăm nhà một người bạn tại phường Chùa Hang, TP Thái Nguyên. Ở tuổi 77, đôi mắt đã mờ song ông Châu vẫn rất minh mẫn, khuôn mặt biểu cảm cùng giọng nói hào sảng, ông thuật lại cho tôi từng chi tiết trong mỗi trận đánh mà ông tham gia.


Đại tá Hoàng Minh Châu cùng con trai xem lại những kỷ vật thời chiến.

Đại tá Hoàng Minh Châu, sinh năm 1942, là con út trong gia đình có 5 anh em ở xã Xuân Hòa, huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng. Năm 1960, ông viết đơn tình nguyện nhập ngũ và huấn luyện ở Đại đội 16, Tiểu đoàn 4, Lữ đoàn 316, Quân khu Tây Bắc, với tài bắn giỏi sau đó ông được lựa chọn vào huấn luyện ở đơn vị đặc công. Tháng 7-1963, Trung đội trưởng Hoàng Minh Châu cùng Trung đội 3, Đại đội 3, Đoàn Đặc công 545 hành quân vào Nam chiến đấu. 

29 năm trong quân ngũ, gần một nửa thời gian ông gắn bó và chiến đấu tại chiến trường Tây Nguyên. Trong đó, trận đánh tại Cao điểm Hòn Công, An Khê (Gia Lai) là trận đánh ông nhớ nhất. Hòn Công, An Khê là Sở chỉ huy thông tin của địch, với khu trung tâm liên lạc được bảo vệ bởi nhiều lô cốt cùng một khẩu đội đại liên, bên ngoài căn cứ được bao bọc bởi 18 lớp rào dây thép gai cao 5 mét, phía trong cùng là 1 lớp rào bùng nhùng, xen kẽ là lớp mìn dày đặc. Hằng ngày, địch thường xuyên đi tuần, lùng sục và phục kích ban đêm để phát hiện ta xâm nhập vào căn cứ. Ban đêm chúng kết hợp hệ thống đèn pha cực mạnh, đèn quét hồng ngoại và một đoàn xe bọc thép đi tuần tra ít nhất 2-3 lần. Thời điểm này, trên cương vị là Trung đội trưởng Trung đội 3, Đại đội 3, Tiểu đoàn 407, sau một tuần đi trinh sát, mật phục, Thượng sĩ Hoàng Minh Châu đã nắm được quy luật hoạt động, tuyến đường tuần tra của địch. Đúng 7 giờ tối ngày 6-2-1966, đơn vị chia làm hai mũi tấn công địch. Ông Châu kể lại: “Trong lúc hai tổ đang cắt hàng rào thép gai, tôi  đã trực tiếp chỉ huy một mũi táo bạo tiếp cận doanh trại của địch theo chính con đường mà chúng hay đi tuần. Theo hướng này, chúng tôi phải chạy thật nhanh, cứ sau 15 phút tôi cùng anh em lại phải nằm im, bởi khi đó đèn pha, đèn hồng ngoại của địch sẽ quét từ trên cao xuống, lúc này đêm tối địch khó phát hiện được bởi trước đó chúng tôi đã ngụy trang thân mình giống như bãi cỏ. Cứ như vậy, đến 10 giờ đêm, chúng tôi đã vào trung tâm đầu não của địch. Do đài liên lạc đặt trên cao, có tường bao quanh nên tôi cùng anh em gồng mình kiệu nhau lên đến đỉnh. Vừa lên tới nơi, tôi phát hiện và dùng súng AK tiêu diệt gọn 5 tên trong khẩu đội đại liên của Mỹ, thấy động 5 tên khác cùng lúc xông vào tấn công, 2 tên lao tới bóp cổ, 3 tên khác, đứa bắn vào đùi, đứa dùng dao đâm vào tay, vào ngực tôi. Lúc này tôi bình tĩnh dùng võ quật ngã đối phương và lấy lưỡi lê mang theo bên mình tiêu diệt thêm 5 lính Mỹ nữa. Ngay lúc ấy, đồng đội đi cùng dùng bộc phá tiêu diệt gọn lô cốt, đánh chiếm toàn bộ mục tiêu. Qua 12 giờ đêm, khi mũi tấn công của chúng tôi đã hoàn thành nhiệm vụ, thì lúc này mũi tấn công thứ hai mới tới nơi”. Sau trận đánh này, với thành tích tiêu diệt 17 lính Mỹ, ông Châu được tặng danh hiệu “Dũng sĩ diệt Mỹ ưu tú” và Huân chương chiến công hạng nhất. 

Khi tham gia Chiến dịch Hồ Chí Minh, Đại úy Hoàng Minh Châu là Trung đoàn phó, Trung đoàn Đặc công cơ động 198 trực thuộc Bộ tư lệnh Quân đoàn 3. Khi đó, Trung đoàn có nhiệm vụ phối thuộc với Sư đoàn 10 đánh chiếm và chốt giữ các mục tiêu cầu Bông, cầu Sáng và thành Quan Năm, đảm bảo đường cơ động cho Quân đoàn và các lực lượng từ hướng Tây Bắc vào Sài Gòn đánh chiếm Sân bay Tân Sơn Nhất và Bộ Tổng tham mưu ngụy. Trong trận này, Trung đoàn phó Hoàng Minh Châu chỉ huy Tiểu đoàn 1 tiến về phía Cầu Bông, đây là cây cầu nằm trên quốc lộ 1 và là con được độc đạo chạy giữa cánh đồng lúa Hậu Nghĩa - Củ Chi vào Sài Gòn, xung quanh có nhiều kênh rạch, đầm lầy nên xe cơ giới không thể cơ động được. Lực lượng của địch có khoảng 60-70 tên, hai bên cầu địch xây dựng 5 lô cốt kiên cố, cùng hệ thống chiến hào, giao thông hào được xây dựng hoàn chỉnh và liên kết chặt chẽ trên từng khu vực cầu. Đúng 3 giờ 30 phút ngày 29-4, đơn vị chia thành 3 mũi nổ súng tiến công, đến 5 giờ đơn vị đã làm chủ được cầu Bông và triển khai đội hình bảo vệ cầu, sẵn sàng đánh địch phản kích. 10 giờ, tàn quân địch từ tiểu khu Hậu Nghĩa và tàn quân Sư đoàn 25 ngụy ở Đồng Dù đi trên 23 chiếc xe tăng, xe bọc thép và gần chục chiếc ô tô từ hướng Củ Chi kéo về, bộ đội ta lợi dụng công sự có sẵn, dùng súng B40, AK, lựu đạn đánh trả quyết liệt, trong vòng 10 phút, 3 chiếc xe tăng đi đầu đã bị tiêu diệt, đến 11 giờ 40 phút, toàn bộ đội hình địch bị diệt gọn. Sau hơn 8 giờ chiến đấu, đơn vị tiêu diệt 65 tên, bắt sống 32 tên, thu 7 xe M113. Quá trình chiến đấu, dù bị thương, song ông vẫn kiên cường bám trụ, chỉ huy đơn vị giữ nguyên vẹn cầu, giúp bộ binh tiến vào nội đô giải phóng Sài Gòn. 

Đất nước thống nhất, trải qua nhiều cương vị khác nhau, năm 1989 ông về nghỉ hưu trên cương vị Trưởng phòng Đặc công Quân khu 1, với  9 huân chương chiến công, 3 huân chương chiến sĩ vẻ vang song với cựu lính đặc công Hoàng Minh Châu, tài sản quý giá nhất chính là 7 người con nay đã trưởng thành, với ông được sống trong hòa bình và được “sống lại” một thời tuổi trẻ luôn là điều trân quý nhất. Đối với thế hệ trẻ, những người được sinh ra và lớn lên trong thời bình, những kỷ niệm và kinh nghiệm chiến đấu của ông luôn là bài học lịch sử quý giá.


Bài và ảnh: HƯƠNG DỊU