Vừa qua, các thế lực thù địch, phản động đã tán phát trên internet bài viết tựa đề: “Đánh dấu 39 năm Ngày Dựng CChính Nghĩa” của Lý Thái Hùng - kẻ tự xưng là “Tổng Bí thư” của tổ chức “Việt Nam canh tân cách mạng Đảng” (thường gọi là “Việt Tân”). Bài viết rêu rao cho vụ việc ngày 8/3/1982, ngày mà cái gọi là “Mặt trận quốc gia thống nhất giải phóng Việt Nam, tiền thân của “Việt Tân”, là cơ quan đầu não, chỉ huy mọi hoạt động của “Mặt trận”, công bố tài liệu gọi là “Cương lĩnh Chính trị”! Bài viết có nhiều nội dung xuyên tạc sự thật lịch sử, nhất là luận điệu cho rằng: “Cộng sản Việt Nam đã đưa Tổ quốc chúng ta vào vòng thống trị của đế quốc”. Đây là luận điệu rất phản động, lạc lõng giữa dòng chảy của lịch sử dân tộc Việt Nam!


Việt Tân đăng tải bài viết ngày 8-3-2021.

Chúng ta không quên năm 1858, thực dân Pháp xâm lược Việt Nam. Từ  đó đến cuối những năm 20 của thế kỷ XX, đã có hơn 300 cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp xâm lược, với nhiều con đường, nhiều hình thức đấu tranh khác nhau, song tất cả đều thất bại.

Trong bối cảnh đó, ngày 5/6/1911, chàng thanh niên Nguyễn Tất Thành (lấy tên là Văn Ba) đã ra đi tìm đường cứu nước. Sau nhiều năm bôn ba tại các nước tư bản phát triển ở phương Tây, Người đã tìm thấy và truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin về nước, sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Ngay từ khi mới ra đời, với đường lối cách mạng đúng đắn, giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, Đảng đã nắm được quyền lãnh đạo cách mạng Việt Nam.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, dân tộc ta đã tiến hành cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 thắng lợi, chấm dứt chế độ thuộc địa trên 80 năm của thực dân Pháp và chế độ bóc lột tàn bạo của phát xít Nhật; khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa; đưa nhân dân Việt Nam từ thân phận nộ lệ trở thành người chủ đích thực, tự quyết định con đường phát triển của đất nước; đồng thời, xác lập vị trí quốc tế của dân tộc Việt Nam trong hàng ngũ các dân tộc tiên phong chống chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa phát xít.

Sự thật lịch sử là, ngày 15/8/1945, phát xít Nhật chỉ đầu hàng quân Đồng minh chứ không đầu hàng nhân dân Việt Nam. Đó là thời cơ, là yếu tố khách quan để mọi dân tộc đang bị phát xít Nhật chiếm đóng, như: Trung Quốc, Thái Lan, Indonesia, Malaysia… và Việt Nam, vùng lên giành chính quyền. Nhưng chỉ có dân tộc Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đã nắm bắt được thời cơ đó để giành lấy chính quyền và nền độc lập, tự do. Cùng thời cơ và thời điểm đó, ở Việt Nam có nhiều lực lượng chính trị khác nhau (gồm cả yêu nước và phản động), họ cũng xác định mục tiêu giành chính quyền, nhưng họ không quy tụ được lực lượng nên “lực bất tòng tâm”. Điều đó cho thấy sự thật không thể phủ nhận là, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có công vĩ đại trong việc đưa Tổ quốc Việt Nam thoát khỏi vòng thống trị của phát xít Nhật, giành lấy chính quyền trước khi quân Đồng minh vào Đông Dương.

Nhưng chỉ sau ba tuần Việt Nam Tuyên bố độc lập, ngày 23/9/1945, thực dân Pháp lại nổ súng xâm lược miền Nam Việt Nam. Chúng ta muốn hòa bình nên đã chủ trương hòa hoãn bằng việc ký Hiệp định Sơ bộ ngày 6/3/1946. Phía Pháp tiếp tục gây sức ép, chúng ta đã tiếp tục nhân nhượng bằng việc ký Tạm ước ngày 14/9/1946, “là một bước nhân nhượng cuối cùng. Nhân nhượng nữa là phạm đến chủ quyền của nước, là hại quyền lợi cao trọng của dân tộc”. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, bởi chúng quyết tâm cướp nước ta một lần nữa. Vì thế, ngày 19/12/1946, toàn thể dân tộc Việt Nam đã nhất tề đứng dậy tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, sau 9 năm trường kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, nhân dân ta đã buộc các cường quốc chính thức ghi nhận nền độc lập, chủ quyền, sự thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của nước Việt Nam trong Tuyên bố của Hội nghị Genève: “Trong quan hệ với Cao Miên, Lào và Việt Nam, mỗi nước tham gia Hội nghị Genève cam kết tôn trọng chủ quyền, độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của những nước trên và tuyệt đối không can thiệp vào công việc nội trị của những nước đó”.

Sau này, chính Tổng thống Pháp F. Mitterrand, trong chuyến thăm Việt Nam tháng 2/1993, đã thú nhận rằng: “Cuộc chiến tranh đó đối với tôi luôn luôn là một sai lầm” và “Cụ Hồ Chí Minh đã tìm kiếm những người đối thoại nhưng không tìm được, dù rất mong muốn đàm phán để hướng tới độc lập, Cụ Hồ Chí Minh đã bị đẩy vào cuộc chiến tranh!” Như thế câu trả lời đã rõ ràng, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Đảng và dân tộc ta đã bị thực dân Pháp đẩy vào cuộc chiến tranh với mưu đồ đưa Tổ quốc ta vào vòng thống trị của chủ nghĩa thực dân.

Và sau đó, người Mỹ lại sa lầy ở Việt Nam theo vết xe đổ của người Pháp. Là một bên đàm phán trong Hội nghị Genève, nhưng ngay sau đó Mỹ đã “vi phạm tinh thần và lời văn của Hiệp định Genève, chính quyền Eisenhower đã câu kết chặt chẽ với chính quyền Ngô Đình Diệm, đẩy Pháp ra khỏi Việt Nam và không tiếc tay ném các nguồn lực của mình nhằm xây dựng một quốc gia phi cộng sản, “có sức sống” ở Nam Việt Nam mà Mỹ hy vọng sẽ là viên đá tảng của thế giới tự do ở Đông Nam Á”.

Với danh nghĩa một quốc gia “đồng minh”, ngụy quyền Sài Gòn luôn kêu gọi Mỹ viện trợ về mọi mặt để chống chủ nghĩa cộng sản, “chống miền Bắc xâm lược miền Nam”(!). Nguyên Tổng thống của ngụy quyền Sài Gòn Nguyễn Văn Thiệu từng cay đắng thú nhận: “Nếu Mỹ mà không viện trợ cho chúng tôi nữa thì không phải là một ngày, một tháng hay một năm mà chỉ sau ba giờ, chúng tôi sẽ rời khỏi Dinh Độc Lập”. Như thế đã rất rõ, chính bọn ngụy quân, ngụy quyền Sài Gòn, từ chính quyền của Ngô Đình Diệm đến Nguyễn Văn Thiệu, đã không ngừng tìm cách đưa miền Nam Việt Nam vào vòng thống trị của đế quốc Mỹ!

Đối với miền Bắc Việt Nam, Cơ quan An ninh Quốc gia Mỹ (National Security Agency) đã ngụy tạo bằng chứng, dựng lên cái gọi là “Sự kiện Vịnh Bắc Bộ”, tạo cớ miền Bắc Việt Nam tấn công tàu USS Maddox lần hai ngày 4/8/1964, tạo ra hình ảnh “con ngáo ộp” Cộng sản Bắc Việt là “mối đe dọa đến an ninh, lợi ích sống còn của Mỹ ở Đông Nam Á” để Chính phủ Johnson dùng sự việc này làm bằng chứng thuyết phục Quốc hội Mỹ thông qua Nghị quyết Vịnh Bắc Bộ (ngày 07/8/1964), cho phép Tổng thống quyền không giới hạn để ngăn chặn “sự hiếu chiến của Cộng sản”, mở rộng cuộc chiến tranh phá hoại ra miền Bắc, đẩy cả dân tộc Việt Nam vào cuộc chiến tranh vệ quốc đầy máu và nước mắt.

Về điều này, Daniel Ellsberg, một chuyên viên phân tích của quân đội Mỹ khi đọc các hồ sơ mật của Lầu Năm Góc về Việt Nam tại thời điểm 8/1964, sau này đã khẳng định: “Đống bằng chứng tới trong vài ngày dường như đã không có cuộc tấn công nào xảy ra vào ngày 4/8 (năm 1964)” và thông qua việc “đọc những bản phiên mã hàng ngày, đồng thời rút kinh nghiệm qua các bức điện, các báo cáo, các buổi thảo luận ở Lầu Năm Góc và thấy mọi điều người ta nói với công chúng và Quốc hội đều là những lời nói dối (!)”. Đặc biệt, chính Tổng thống Johnson và Bộ trưởng Quốc phòng McNamara đều phải thừa nhận: “Chúng tôi đã sai lầm, sai lầm khủng khiếp. Chúng tôi mắc nợ các thế hệ tương lai trong việc giải thích tại sao lại sai lầm như vậy”.

Sau sự kiện đầy dối trá này của Mỹ, chiến tranh đã lan rộng trên phạm vi cả nước Việt Nam. Kẻ trực tiếp đưa quân sang tham chiến, trang bị vũ khí và sử dụng các phương tiện chiến tranh để chống lại Việt Nam, không phải ai khác, chính là đế quốc Mỹ - kẻ xâm lược miền Nam và rắp tâm đẩy miền Bắc Việt Nam trở về “thời kỳ đồ đá”.

Vì thế, cho dù đế quốc Mỹ và tay sai có tuyên truyền rằng, đưa quân Mỹ và quân Đồng minh sang để “giúp” miền Nam được “tự do”, “tự quyết” và thoát khỏi nguy cơ “xâm lược của cộng sản Bắc Việt”…, nhưng sự thật vẫn luôn là sự thật, không thể mãi che đậy, lừa dối. Tháng 11/2000, trong chuyến thăm chính thức Việt Nam, Tổng thống Mỹ B. Clinton đã thừa nhận rằng: Nhiều người ở Mỹ đã hiểu sai, lầm tưởng rằng họ sang chiến đấu để giúp người Việt Nam được tự do và tự quyết! Ngày 24/5/2016, trong bài phát biểu trước hàng nghìn sinh viên Việt Nam, Tổng thống Mỹ B. Obama đã khẳng định: Thế kỷ XX đã dạy cho Mỹ rằng, tất cả các quốc gia đều có chủ quyền, dù lớn hay nhỏ đều phải được tôn trọng!

Và mới đây, ngày 23/3/2017, trong chuyến thăm và làm việc tại trường Đại học Khoa học Xã hội và nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Giáo sư Drew Gilpin Faust, Hiệu trưởng Đại học Harvard đã thừa nhận: “Thanh niên trai tráng trong thế hệ chúng tôi đã phải đối diện với giấy gọi nghĩa vụ quân sự, khiến nhiều người phải đấu tranh nội tâm xem họ có nên tuân thủ pháp luật, phụng sự cuộc chiến mà họ cho rằng vừa không khôn ngoan, vừa bất chính?”. Một số người không chấp hành lệnh gọi nhập ngũ, bị luật pháp Mỹ lúc đó trừng phạt để rồi tâm hồn họ được thanh thản. Nhưng “rất nhiều người thế hệ tôi… đã có những lựa chọn về Việt Nam (sang chiến đấu tại Việt Nam), khiến chúng tôi bị ám ảnh suốt quãng đời còn lại của mình, cả lúc tỉnh cũng như khi mơ!”. Đó là sự trả giá cho những quyết định sai lầm trong quá khứ!

Sự thật lịch sử về thắng lợi của nhân dân ta trong các cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược được cả thế giới, trong đó có nhân dân Pháp, nhân dân Mỹ và các tổ chức tiến bộ trên thế giới đồng tình ủng hộ, thừa nhận, ca ngợi, rằng: Việt Nam là lương tri của thời đại, biểu tượng của phẩm giá con người, là đỉnh cao của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, ngọn cờ đầu của phong trào chống thực dân, đế quốc, giải phóng dân tộc trong thế kỷ XX… cuộc chiến tranh giải phóng kéo dài 30 năm (1945 - 1975) của dân tộc Việt nam đã qua đi gần nửa thế kỷ; các nhà sử học, trí thức, tướng lĩnh và chính trị gia ở Pháp, Mỹ trong nhiều cuốn sách, bài báo, hồi ký, tổng kết về chiến tranh đều đã thừa nhận những sai lầm và thất bại của họ khi xâm lược Việt Nam. Thực tế lịch sử đó tiếp tục khẳng định, chính Đảng Cộng sản Việt Nam có công vĩ đại đưa Tổ quốc thoát khỏi ách thống trị của thực dân, đế quốc.

Hiện nay, Việt Nam và Pháp, Mỹ đã bình thường hóa quan hệ, trở thành những đối tác quan trọng của nhau, mang lại nhiều lợi ích cho các bên. Hàng năm, hàng vạn Việt kiều ở hải ngoại đã trở về thăm quê hương, hưởng trọn niềm vui hòa giải, hòa hợp dân tộc theo đường lối đại đoàn kết của Đảng, chính sách và luật pháp của Nhà nước Việt Nam, cùng góp công sức bảo vệ và xây dựng Tổ quốc Việt Nam ngày càng giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Trong xu thế đó, những tiếng nói xuyên tạc lịch sử trở nên lạc lõng hơn bao giờ hết. Vậy mà, đến nay vẫn có kẻ quay lưng, ngoảnh mặt với toàn thể dân tộc Việt Nam, cố tình xuyên tạc, bóp méo sự thật lịch sử. Họ không biết hay cố tình không hiểu câu châm ngôn: Nếu anh bắn vào quá khứ bằng súng lục, tương lai sẽ bắn vào anh bằng đại bác!

NGUYỄN ĐỨC HỌC
Các tin khác:

Tìm kiếm theo:Chuyên mục nàyTất cả các chuyên mục