Trung tướng Nguyễn Hùng Phong trong lòng quân dân Việt Bắc
Cập nhật ngày: 10/12/2018 08:37 (GMT +7)

Sinh ra trên mảnh đất cố đô Ninh Bình, về hưu sống ở Thủ đô Hà Nội, nhưng những năm tháng sung sức, nhiệt huyết nhất trong cuộc đời của Trung tướng Nguyễn Hùng Phong lại gắn bó với vùng đất là cái nôi của cách mạng - Thủ đô gió ngàn - Thủ đô kháng chiến Việt Bắc. Vị tướng dạn dày trận mạc Nguyễn Hùng Phong luôn trong lòng quân dân Việt Bắc trong những ngày kháng chiến gian khổ và cả trong thời bình. Trước khi nghỉ hưu, đồng chí là Phó Bí thư Đảng ủy, Phó tư lệnh về chính trị Quân khu 1. Vì thế, quân dân Việt Bắc bàng hoàng, thương tíếc khi được tin đồng chí đã vĩnh viễn ra đi...


Trung tướng Nguyễn Hùng Phong (thứ 2 từ phải sang) trao đổi cùng thủ trưởng Bộ tư lệnh Quân khu các thời kỳ tại Hội thảo “Lịch sử LLVT Quân khu 1 - Việt Bắc”, tháng 7-2015.  Ảnh: KHƯƠNG DOÃN

Sau Cách mạng Tháng Tám, từ phong trào cách mạng ở quê hương Ninh Bình, đồng chí Nguyễn Hùng Phong được tham gia lớp học quân sự bí mật tại trường Quân chính Bắc Sơn ở Thái Nguyên. Nguyễn Hùng Phong là một trong số những học viên xuất sắc của trường lúc đó, vì thế sau khi ra trường,  đồng chí đã được bổ nhiệm ngay làm  Chính trị viên đại đội khi mới tròn 18 tuổi.

Trong Chiến dịch Việt Bắc Thu - Đông năm 1947, đồng chí là Chính trị viên Đại đội 5 thuộc Tiểu đoàn 2 (Tiểu đoàn Bình Ca), Trung đoàn 308 (sau này Trung đoàn 308 phát triển thành Sư đoàn 308), trực tiếp chỉ huy bộ đội chiến đấu với quân viễn chinh Pháp từ bến Bình Ca về huyện lỵ Sơn Dương (Tuyên Quang) rồi sang đánh chặn địch ở Đèo Khế, Văn Lãng, Đại Từ (Thái Nguyên). 

Năm 1948, trên cương vị là Chính trị viên Đại đội 140 thuộc Tiểu đoàn Bình Ca, đồng chí Nguyễn Hùng Phong chỉ huy bộ đội tham gia chiến dịch Đông Bắc. Đồng đội cũ của đồng chí kể rằng, trong trận đánh đồn An Châu, đồn Đông Dương và trận Tao Ngộ chiến ở Khe Man Đông Bắc, quân địch đã bắn 1 loạt đạn về phía đội hình đồng chí đang chỉ huy, nhưng may mắn thay, vì hôm đó trời rất lạnh, đồng chí mặc một chiếc áo khá dày, trước ngực lại đeo một chiếc xà cốt của chính trị viên nên sau loạt đạn ấy, đồng chí chỉ bị đứt dây đeo xà cốt và thủng áo mà may mắn thoát chết. Thế nhưng ở loạt đạn sau thì đồng chí đã bị thương ở phần đùi. Giữa chiến trường Đông Bắc khi ấy không có trạm cứu thương nên đồng chí được đưa ra tuyến sau vào rừng, phải mất mấy ngày sau, Nguyễn Hùng Phong mới được đưa về trạm cứu thương ở Bắc Giang trong tình trạng  mất nhiều máu và dường như kiệt sức.

Sau thời gian được điều trị, vết thương đã lành và đồng chí có thể đi lại được, Hùng Phong lại cùng anh em thoát ra khỏi vòng vây của địch tìm lại cơ sở và tiếp tục hoạt động. Năm 1949, đồng chí  làm Chính trị viên Đại đội Tô Vân, Tiểu đoàn 29, Trung đoàn 88, Đại đoàn 308 hoạt động chủ yếu trên đường số 4, đánh các đồn địch ở Lạng Sơn: Nà Leng, Nà Han, bản Bê và trực tiếp chỉ huy bộ đội trong trận phục kích Lũng Phầy (Lạng Sơn) khiến kẻ thù khiếp sợ.

 Trong chiến dịch Biên giới 1950, trên cương vị Chính trị viên Tiểu đoàn 89, Trung đoàn 36, Đại đoàn 308, đồng chí chỉ huy bộ đội đánh địch ở Nà Pá, Khâu Luông và tiến công địch trên đường số 4 thuộc huyện Thạch An, Cao Bằng. Vinh dự lớn của đồng chí trong Chiến dịch Biên giới là được gặp Bác Hồ tại Hội nghị cán bộ giao nhiệm vụ chiến đấu bước vào chiến dịch và Hội nghị tổng kết chiến dịch.

Năm 1952, với cương vị là Chính trị viên Tiểu đoàn 29, Trung đoàn 88, Đại đoàn 308, đồng chí chỉ huy bộ đội tham gia chiến dịch Hòa Bình và bị thương lần 2. Là người trực tiếp tham gia Chiến dịch Điện Biên Phủ 1954 và Chiến dịch Hồ Chí Minh 1975, đồng chí đã chỉ huy bộ đội chiến đấu hàng trăm trận đánh trên khắp các chiến trường Tây Bắc, Đông Bắc, Quảng trị, Đường 9 Khe Sanh… góp phần cùng với quân và dân cả nước giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.

Như có duyên nợ với chiến khu Việt Bắc, năm 1981, đồng chí được cấp trên giao nhiệm vụ giữ chức vụ Phó Bí thư Đảng ủy, Phó tư lệnh về chính trị Quân khu 1. Hơn 10 năm đảm nhiệm vị trí chủ trì về công tác Đảng-công tác chính trị ở Quân khu địa đầu Tổ quốc (từ tháng 8 năm 1981 đến tháng 12 năm 1991), trong thời điểm vô cùng khó khăn do đất nước vừa đi qua cuộc chiến tranh, Trung tướng Nguyễn Hùng Phong luôn chủ động nghiên cứu nắm tình hình, kịp thời tham mưu đề xuất cùng với tập thể Ban Thường vụ Đảng ủy, Bộ tư lệnh Quân khu triển khai thực hiện tốt mọi đường lối chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, nhất là trong hai nhiệm kỳ (1981-1985 và 1986-1990), đã cùng Đảng ủy Quân khu xác định nhiều chủ trương, biện pháp lãnh đạo mang tính đột phá để Quân khu 1 hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ mà Đảng, Nhà  nước và nhân dân giao phó. Đặc biệt, trong nhiệm kỳ 1986-1990, đồng chí cùng với tập thể Đảng ủy Quân khu đã triển khai toàn diện đường lối đổi mới do Đại hội VI của Đảng khởi xướng, gắn với thực hiện đồng bộ việc đổi mới công tác huấn luyện, hậu cần, kỹ thuật của Quân khu, góp phần nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu của Quân khu, củng cố thế trận quốc phòng toàn dân của Quân khu trong giai đoạn cách mạng mới. 

Tháng 1-1992, đồng chí được Đảng, Nhà nước cho nghỉ hưu trở về với gia đình, địa phương. Song ngoài việc là người chồng, người cha và người ông mẫu mực trong gia đình, đồng chí vẫn giữ vững và phát huy tốt phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ”, luôn dõi theo từng bước trưởng thành, phát triển của Quân đội nói chung và Quân khu 1 nói riêng. Mặc dù tuổi cao, sức yếu, nhưng mỗi lần về thăm lại địa bàn Quân khu 1, vui mừng trước sự trưởng thành và lớn mạnh của lực lượng vũ trang Quân khu, nhất là trong thực hiện nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, xây dựng Đảng bộ Quân khu vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao; đồng thời đồng chí còn tích cực tham gia nghiên cứu, biên tập về truyền thống lịch sử lực lượng vũ trang Quân khu 1; góp phần truyền thụ kinh nghiệm chiến đấu và giáo dục truyền thống cho các thế hệ cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang Quân khu. 

Trung tướng Nguyễn Hùng Phong đã ra đi, nhưng hình ảnh một vị tướng đảm nhiệm chức vụ Phó Bí thư Đảng ủy, Phó tư lệnh về chính trị Quân khu quyết đoán, sáng tạo trong lãnh đạo, chỉ huy; gần gũi gắn bó với từng đơn vị cơ sở không chỉ là dấu ấn in đậm trong tâm trí của cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang Quân khu 1, mà còn đọng lại trong ký ức của nhiều người.

Tóm tắt tiểu sử đồng chí Trung tướng Nguyễn Hùng Phong, 
nguyên Phó bí thư Đảng ủy, Phó tư lệnh về chính trị Quân khu 1

Đồng chí Nguyễn Hùng Phong, tên khai sinh là Nguyễn Ngọc Huyễn, sinh ngày 18-12-1927 tại làng Côi Trì, xã Yên Mỹ, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình; thường trú tại số 33B Phạm Ngũ Lão, phường Phan Chu Trinh, quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội. 
Tại quê nhà, tháng 7-1942 đồng chí tham gia cách mạng; ngày 15-3-1946, đồng chí nhập ngũ, vào học khóa 1, Trường Quân chính Bắc Sơn. Tháng 8-1946, đồng chí được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương tại Chi bộ Trường Quân chính Bắc Sơn; được công nhận đảng viên chính thức tháng 12-1946 tại Tiểu đoàn 1, đơn vị bảo vệ Bộ Quốc phòng.
Tháng 7-1942, đồng chí hoạt động trong Đoàn thanh niên cứu quốc Mặt trận Việt Minh xã Côi Trì (Yên Mô, Ninh Bình). 
Tháng 8-1945, tham gia cướp chính quyền tại huyện Yên Mô.
Từ tháng 8-1945 đến tháng 10-1945: Tham gia lập chính quyền xã, được bầu làm ủy viên thư ký trong UBND lâm thời xã Côi Trì.
Tháng 11-1945 đến tháng 2-1946: Làm cán bộ Việt Minh huyện Yên Mô. Tháng 3-1946 đến tháng 11-1946: Được tỉnh cử đi học Trường Quân chính Bắc Sơn tại tỉnh Thái Nguyên - Việt Bắc.
Từ tháng 12-1946 đến tháng 12-1952, sau khi học Trường Quân chính Bắc Sơn, đồng chí trải qua nhiều cương vị công tác từ cán bộ đại đội đến Phó chủ nhiệm Chính trị Trung đoàn. Tại các đơn vị: Trung đoàn 17, Trung đoàn 308 (tiền thân của Đại đoàn 308), Trung đoàn 88 (Đại đoàn 308).
Tháng 1-1953 đến tháng 4-1953: đồng chí được cử đi học khóa 7 Trường Chính trị của Tổng cục Chính trị ở căn cứ Việt Bắc (huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên).
Tháng 5-1953 đến tháng 11-1956: Bí thư Đảng ủy, Chính ủy Trung đoàn 77 Bộ Quốc phòng rồi Chính ủy Trung đoàn 242 và Trung đoàn 238 (Sư đoàn 332, Quân khu Đông Bắc).
Tháng 12-1956 đến tháng 5-1958: Chủ nhiệm Chính trị Sư đoàn 332 kiêm Chủ nhiệm Chính trị Quân khu Đông Bắc.
Tháng 6-1958 đến tháng 5-1960: Chủ nhiệm Chính trị Trường Sĩ quan Lục quân, Ủy viên Thường vụ Đảng ủy Nhà trường. Năm 1958, quân đội có Luật sĩ quan, được phong quân hàm Trung tá.
Tháng 6-1960 đến tháng 7-1961: Chủ nhiệm Chính trị Sư đoàn 350 bảo vệ Thủ đô Hà Nội.
Tháng 4-1965 đến tháng 10-1973: Phó chính ủy rồi Chính ủy Sư đoàn 308 Bộ Quốc phòng.
Tháng 11-1973 đến tháng 12-1976: Phó chính ủy kiêm Chủ nhiệm Chính trị Quân đoàn 1 (Quân đoàn đầu tiên của quân đội).
Tháng 1-1977 đến tháng 11-1977: Học tại Trường Quân sự cao cấp Bộ Tổng tham mưu Quân đội Liên Xô.
Tháng 1-1978 đến tháng 6-1979: Cục trưởng Cục Tổ chức (Tổng cục Chính trị), Ủy viên Thường vụ Đảng ủy Tổng cục Chính trị. Tháng 2-1979 được phong quân hàm Thiếu tướng.
Từ tháng 7-1979 đến tháng 8-1980: Bí thư Đảng ủy, Chính ủy Quân đoàn 2.
Từ tháng 9-1980 đến tháng 8-1981: Phó tư lệnh, Tham mưu trưởng Quân khu 3, kiêm Quân đoàn trưởng Quân đoàn 68, Phó Bí thư Đảng ủy Quân khu 3.
Tháng 8-1981 đến tháng 12-1991: Phó Bí thư Đảng ủy, Phó tư lệnh về chính trị Quân khu 1. Tháng 1-1986, được thăng quân hàm Trung tướng.
Từ tháng 1-1992, đồng chí được nghỉ chờ hưu và nghỉ hưu theo chế độ.
Suốt quá trình tham gia cách mạng, đồng chí Nguyễn Hùng Phong đã đảm đương nhiều cương vị quan trọng của quân đội, chỉ huy bộ đội tham gia nhiều trận đánh trong các chiến dịch lớn của cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, tiêu biểu như: Tham gia Chiến dịch Việt Bắc Thu - Đông 1947; Chiến dịch Đông Bắc 1948; Chiến dịch Biên giới 1950; các Chiến dịch Hoàng Hoa Thám, Trần Hưng Đạo, Quang Trung năm 1951; Chiến dịch Quảng Trị 1972; Chiến dịch Hồ Chí Minh 1975... 
Do có nhiều công lao, đóng góp đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc và sự nghiệp xây dựng quân đội, bảo vệ Tổ quốc, đồng chí Nguyễn Hùng Phong được tặng nhiều phần thưởng cao quý: Huân chương Độc lập hạng nhất; huy hiệu 70 năm tuổi Đảng; Huân chương Kháng chiến hạng nhất; Huân chương Quân công hạng nhất, hạng nhì; Huân chương Chiến thắng hạng nhì; Huân chương Chiến công hạng nhì, ba; Huân chương Chiến công giải phóng hạng ba... cùng nhiều huân, huy chương cao quý khác.

 

Thiếu tướng DƯƠNG ĐÌNH THÔNG, Bí thư Đảng ủy, Chính ủy Quân khu 

 

 

Các tin khác:

Tìm kiếm theo:Chuyên mục nàyTất cả các chuyên mục